Những tàu chiến-tuần dương đầu tiên Tàu_chiến-tuần_dương

HMS Invincible, tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Anh Quốc

Tàu chiến-tuần dương là một sự phát triển ngoạn mục từ những thiết kế tàu tuần dương bọc thép và "thiết giáp hạm hạng hai" vào thập niên 1890, chủ yếu là nhờ Đô đốc Anh Jackie Fisher.[3] Lúc bước sang thế kỷ mới, tàu tuần dương bọc thép hiện đại là những tàu chiến nhanh và mạnh mẽ có khả năng đe dọa các con đường thương mại khắp thế giới, hay phối hợp hoạt động với các hạm đội thiết giáp hạm.[4] Hải quân Hoàng gia, đặc biệt là Fisher, quan tâm đến những hư hại mà những tàu tuần dương bọc thép, đặc biệt là của Hải quân Pháp, có thể gây ra cho nền thương mại của Anh khắp thế giới một khi chiến tranh nổ ra.[5] Fisher dự tính các tàu tuần dương bọc thép Anh sẽ trở nên nhanh hơn và vũ trang mạnh hơn để đối phó với mối đe dọa này. Ông cũng rất ưa thích "thiết giáp hạm hạng hai" HMS Renown, một thiết giáp hạm nhẹ hơn, nhanh hơn.[6] Ngay từ năm 1901, đã có sự lẫn lộn trong những bài viết của Fisher về việc ông xem thiết giáp hạm hay tàu tuần dương là kiểu mẫu của sự phát triển trong tương lai.

Trong giai đoạn 19021904, dòng tư tưởng chính thống của Hải quân Anh rõ ràng đang ưa chuộng thiết giáp hạm có vỏ giáp nặng, hơn là những con tàu nhanh mà Fisher nghĩ đến. Tuy nhiên, một sự dịch chuyển từ dàn hỏa lực hỗn hợp nhiều cỡ pháo của những chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thập niên 1890 sang một thiết kế "toàn pháo lớn" đã được cân nhắc đến. Các thiết kế sơ thảo đề cập đến thiết giáp hạm được trang bị toàn pháo 305 mm (12 inch) hay 252 mm (10 inch) và tàu tuần dương bọc thép được trang bị toàn pháo 234 mm (9,2 inch).[7]

Vào mùa Hè năm 1904, sau khi Fisher được chỉ định làm Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Hải quân, đã quyết định sử dụng pháo 305 mm (12 inch) trên thế hệ thiết giáp hạm tiếp theo do khả năng thể hiện vượt trội của chúng ở tầm xa. Vũ khí trang bị cho các tàu tuần dương bọc thép tiếp theo còn đang rất tranh cãi. Kích cỡ và chi phí của thế hệ tàu tuần dương bọc thép tiếp theo có nghĩa là rất có thể chúng sẽ đóng một vai trò trong các hoạt động của thiết giáp hạm, tức là phải có pháo cỡ 305 mm (12 inch).[8] Đây cũng là lý luận tương tự mà người Nhật trang bị những tàu tuần dương mới nhất của họ với bốn khẩu 305 mm (12 inch) làm dàn pháo chính.[9] Tuy nhiên, cũng có khả năng là Fisher đã gây sức ép để tàu tuần dương được trang bị vũ khí giống như thiết giáp hạm vì ông hy vọng rằng thiết kế mới của tàu tuần dương sẽ làm nó thay thế cho thiết giáp hạm. Quyết định cho thế hệ tiếp theo của tàu tuần dương bọc thép được trang bị vũ khí "toàn pháo lớn" là một thời điểm cốt lõi trong việc hình thành tàu chiến-tuần dương. Nếu những con tàu này chỉ được trang bị pháo 252 mm (10 inch) hay 234 mm (9,2 inch), chúng chỉ là những tàu tuần dương bọc thép tốt hơn mà thôi.[10]

Những thay đổi căn bản trong chính sách đóng tàu mà Fisher thực hiện bao gồm cả việc ông chỉ định một Ủy ban Thiết kế vào tháng 12 năm 1904. Trong khi mục đích đặt ra của Ủy ban là khảo sát và báo cáo về nhu cầu của tàu chiến trong tương lai, những quyết định chủ yếu đều bởi Fisher và các phụ tá của ông.[11] Những điều kiện tham khảo cho Ủy ban là một thiết giáp hạm có khả năng đạt tốc độ 39 km/h (21 knot) và trang bị pháo 305 mm (12 inch) mà không có pháo cỡ nòng trung gian, có thể hoạt động từ những ụ tàu hiện có;[12] và một tàu tuần dương có khả năng đạt tốc độ 47 km/h (25,5 knot), cũng được trang bị pháo 305 mm (12 inch) và không có pháo trung gian, có vỏ giáp tương tự như chiếc tàu tuần dương bọc thép mới nhất HMS Minotaur, và cũng có thể hoạt động từ những ụ tàu hiện có.[11] Chiếc thiết giáp hạm trở thành chiếc HMS Dreadnought mang tính cách mạng, và tàu tuần dương trở thành ba chiếc thuộc lớp Invincible.

Ba chiếc thuộc lớp Invincible là Inflexible, InvincibleIndomitable. Việc chế tạo chúng được bắt đầu vào năm 1906 và hoàn tất vào năm 1908, sự chậm trễ có thể là để cho phép thết kế của chúng có thể học hỏi những vấn đề của Dreadnought.[13] Những con tàu này đáp ứng các mục tiêu thiết kế đặt ra khá sít sao. Invincible có lượng rẽ nước tương đương với Dreadnought nhưng có công suất động cơ mạnh gấp đôi cho phép đạt được tốc độ 46 km/h (25 knot). Chúng có tám khẩu hải pháo 305 mm (12 inch) Mk X, so với mười khẩu trên Dreadnought; lớp vỏ giáp dày 150–180 mm (6-7 inch) dọc hai bên lườn và trên tháp pháo, trong khi vỏ giáp của Dreadnought lên đến 280–300 mm (11-12 inch) ở nơi dày nhất.[14] Lớp tàu mới có sự gia tăng đáng kể về tốc độ, tải trọng và công suất so với những tàu tuần dương bọc thép mới nhất, nhưng vỏ giáp không được cải thiện.

Lớp Invincible sẽ có vai trò giống như những chiếc tàu tuần dương bọc thép mà chúng thay thế, nhưng những chiếc tàu mới được kỳ vọng sẽ hiệu quả hơn trong nhiều mặt. Các vai trò đặc trưng bao gồm:

  • Trinh sát hạng nặng. Vì sức mạnh của chúng, Invincible có thể quét sạch các tàu tuần dương hộ tống đối phương để tiếp cận và quan sát hạm đội thiết giáp đối thủ, trước khi rút lui bằng tốc độ vượt trội.
  • Hỗ trợ gần cho hạm đội thiết giáp. Chúng có thể được bố trí ở cuối hàng chiến trận để ngăn chặn tàu tuần dương đối phương quấy rầy, và để quấy rầy thiết giáp hạm đối phương nếu chúng đang bận đối phó với thiết giáp hạm. Invincible còn có thể hoạt động như cánh nhanh của hạm đội thiết giáp và cố gắng cơ động vượt qua đối thủ.
  • Săn đuổi. Nếu hạm đội đối phương rút chạy, Invincible sẽ dùng tốc độ của chúng để săn đuổi, dùng hỏa lực để tiêu diệt hoặc làm chậm đối thủ.
  • Bảo vệ tàu buôn. Những con tàu mới sẽ săn đuổi tàu tuần dương và các tàu cướp tàu buôn đối phương.[10]

Tên gọi

Sự lẫn lộn làm cách nào để gọi tên những tàu tuần dương bọc thép mới với kích cỡ thiết giáp hạm được đặt ra hầu như ngay lập tức. Ngay vào cuối năm 1905, trước khi công việc chế tạo Invincible được bắt đầu, một bản ghi nhớ của Hải quân Hoàng gia đã đề cập đến "tàu bọc thép lớn" để chỉ cả thiết giáp hạm và tàu tuần dương lớn. Vào tháng 10 năm 1906, Bộ Hải quân bắt đầu phân loại mọi thiết giáp hạm và tàu tuần dương hậu-Dreadnought như là "tàu chiến chủ lực", trong khi Fisher sử dụng thuật ngữ "dreadnought" để chỉ những thiết giáp hạm mới của ông hoặc chung cho cả thiết giáp hạm lẫn tàu tuần dương bọc thép.[15] Cùng lúc đó, bản thân lớp Invincible được gọi là "cruiser-battleship" hay "dreadnought cruiser"; trong khi thuật ngữ "battlecruiser" được Fisher sử dụng lần đầu tiên vào năm 1908. Cuối cùng, vào ngày 24 tháng 11 năm 1911, Mệnh lệnh Hàng tuần Số 351 của Bộ Hải quân đưa ra quyết định rằng "Mọi tàu tuần dương kiểu Invincible và sau đó trong tương lai sẽ được mô tả và phân loại như là battlecruiser (tàu chiến-tuần dương) để phân biệt chúng với tàu tuần dương bọc thép kiểu cũ."[16]